EAS VIETNAM
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Ngon ngu & Van hoa

Go down

Ngon ngu & Van hoa Empty Ngon ngu & Van hoa

Bài gửi  tinhngocthi Sat Jan 22, 2011 9:13 pm

¬
Student’s name: Tinh NgocThi
Class: TN02A
Lesson: Nghệ Thuật Hát Chèo.


Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng và đuợc coi là một loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là kinh kịch của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo.

I.Nguồn gốc hình thành chèo.

Từ bao đời nay chèo đã trở thành một loại hình sinh hoạt văn hóa nghệ thuật quen thuộc của người dân Việt Nam, nuôi duỡng đời sống tinh thần dân tộc bởi cái chất trữ tình đằm thắm sâu sắc. Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian dân tộc chèo là một loại hình sân khấu kịch hát đậm đà tính dân tộc, với sự kết hợp nhuần nhuyễn của hàng loạt yếu tố: hát, múa, nhạc, kịch mang tính nguyên hợp cô cùng độc đáo.
Việt Nam có cả một kho tàng sân khấu cổ truyền gồm nhiều kịch chủng như: cải lương, múa rối, tuồng, chèo. Chúng phát sinh và lớn lên trong xã hội nông nghiệp lạc hậu, chúng phát triển cùng với trình độ và nhu cầu cuộc sống của mỗi thời kỳ lịch sử và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của những người dân đất việt, trong đó chèo giữ một vị trí hết sức quan trọng. Vậy chèo có nguồn gốc từ đâu?
Khi nói chèo bắt nguồn từ kho tàng dân ca cổ truyền Bắc Bộ không có nghĩa là loại dân ca nào cũngcó thể phát triển thành chèo. Tuy nhiên, những nghệ nhân chèo lành nghề có thể “ chèo hóa” bất cứ làn điệu hoặc bài dân ca nào như hát xoan, hát dậm, hát ví…. Tuy nhiên xét về mặt ca nhạc, htì gần gũi với hát chèo có lẽ là hát xẩm, loại nghệ thuật đặc biệt của lớp người mù lòa có năng khiếu văn nghệ mà dân gian gọi là hát xẩm. Bất chấp mọi điều kiện hết sức khó khăn, xẩm biết tổ chức nhau thành làng, phường hoặc hội, có ông(bà) trùm và số nghệ nhân giỏi nghề có uy tín, trông coi cắt đặt công việc làm nghề, hàng năm có họp bàn….
Từ yêu cầu của người thưởng thức đòi người nghề phải thể hiện nội dung ngày một mở rộng( câu hát dài hơn, tích truyện đi sâu hơn, nhân vật nhiều hơn…) đã gia tăng làn điệu với sắc thái nhiều đến kết cấu làn điệu của hát chèo. Có thể nghĩ hát xẩm ra đời trước khi có hát chèo, là một trong nhiều nguồn góp phần cấu thành hát chèo hoặc hát xẩm chỉ là bản sao vụng về của hát chèo trong điều kiện và hoàn cảnh hạn chế của lớp người tật nguyền hoặc là mối liên quan tất yếu giữa hai loại hình này bởi chính nghệ nhân xẩm xếp hát xẩm và chèo cùng loại trung ca. Những thể loại nghệ thuật trên là một phần kho tàng hát múa dân gian vùng trung châu và đồng bằng miền Bắc đã thấy hát xẩm có những tố chất liên quan đến nghệ thuật chèo.
Vậy vùng trung châu và đồng bằng Bắc Bộ là cía nôi của chèo, từ cái nôi ấy sau bao nhiêu thăng trầm của lịch sử nghệ thuật chèo ngày càng phát triển và khẳng định đựơc tầm quan trọng trong nềnvăn hóa dân gian dân tộc.

II.Quá trình phát triển của chèo.


Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Từ thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, họ đã biết biểu diễn các vở chèo đầu tiên trên sân đình. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo. Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát. Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Do không được triều đình ủng hộ, chèo trở về với những người hâm mộ ban đầu là nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.

III.Các đặc trưng của chèo

Không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Khát vọng sống thanh bình giữa một xã hội phong kiến đầy bất công là đặc điểm nổi bật trong nội dung của chèo, nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản thân vì người khác. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vở: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên. Tính chất Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại : tình yêu, tình bạn, tình thương.

1. Nhân vật trong chèo

Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v...Tuy nhiên qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng. Diễn viên đóng chèo nói chung là những người không chuyên, hợp nhau trong những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là phường chèo hay phường trò..."Hề" là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo. Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong cung điện của vua chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm :hề áo dài và hề áo ngắn .

2.Kỹ thuật kịch

Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ. Chèo không có cấu trúc cố định năm hồi một kịch như trong sân khấu Châu Âu mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở kịch kéo dài hay cắt ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người nghệ sỹ hay đòi hỏi của khán giả. Không giống các vở opera buộc các nghệ sỹ phải thuộc lòng từng lời và hát theo nhạc trưởng chỉ huy, nghệ sỹ chèo được phép tự do bẻ làn, nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân vật. Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200.

3. Nhạc cụ

Chèo sử dụng tối thiểu là hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt và đàn nhị đồng thời thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng thêm trống và chũm chọe. Bộ gõ nếu đầu đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát. Có câu nói " phi trống bất thành chèo" chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn thập lục, đàn tam thập lục, đàn nguyệt, tiêu v.v...
4. Tác phẩm
Vở chèo
Một số vở chèo tiêu biểu: 1. Trần Tử Lệ 2. Tuần Ty Đào Huế 3. Quan Âm Thị Kính 4. Lưu Bình-Dương Lễ 5. Từ Thức gặp tiên 6. Kim Nham 7. Chu Mãi Thần 8. Nghêu sò ốc hến 9. Bài ca giữ nước 10. Đồng tiền Vạn Lịch 11. Hoàng Trìu kén vợ...

5.Giai điệu

Một số giai điệu chèo cổ : Quân tử dịch, Sử bằng, Đò đưa, Tò vò, Nhịp đuổi, Du xuân, Đào liễu, Ngâm bốn mùa, Đường trường trong rừng, Tuyết sương, Quá giang... Nghiên cứu Nghiên cứu về chèo, Lương Thế Vinh đã viết Hỷ Phường Phổ Lục.

6. Phân loại chèo

6.1 Chèo sân đình
Chèo sân đình là loại hình chèo cổ của những phường chèo xưa, thường được biểu diễn ở các sân đình, sân chùa, sân nhà các gia đình quyền quý. Sân khấu chèo sân đình thường chỉ là 1 chiếc chiếu trải ngoài sân, đằng sau treo chiếc màn nhỏ, diễn viên và nhạc công ngồi 2 bên mép chiếu tạo dàn đế. Chèo diễn theo lối ước lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngôn ngữ, động tác cách điệu của diễn viên. Đạo cụ của người diễn hay sử dụng là chiếc quạt.
6.2 Chèo cải lương
Chèo cải lương là 1 dạng chèo cách tân do Nguyễn Đình Nghi khởi xướng và theo đuổi để thực hiện từ đầu những năm 1920 đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, theo xu hướng phê phán tính ước lệ của chèo cổ. Chèo cải lương được soạn thành màn, lớp, bỏ múa và động tác cách điệu trong diễn xuất, xử lý những mô hình làn điệu chèo cổ, đưa nguyên những bài dân ca có sẵn vào bổ sung cho hát chèo. Bộ "Tám trận cười" của Nguyễn Đình Nghi gồm những vở nổi tiếng.
6.3 Chèo chái hê
Chèo chái hê là loại hình dân ca hát vào rằm tháng bảy hàng năm, hoặc trong đám tang, đám giỗ của người có tuổi thọ, có nguồn gốc từ việc kết nghĩa giữa 2 làng Vân Tương (Bắc Ninh) và Tam Sơn (Đông Anh, Hà Nội), gồm có các phần: 1. Giáo roi 2. Nhị thập tứ hiếu 3. Múa hát chèo thuyền cạn 4. Múa hát kể thập ân. Kết thúc chương trình hát chèo chái hê thường là hát quan họ.
6.4 Chèo hiện đại
Các nghệ sỹ nổi tiếng
• Tào Mạt : là người có đóng góp lớn trong sự phát triển chèo hiện đại.
• Nguyễn Thị Minh Lý, bà sinh năm 1912, là con gái Trùm Thịnh, người đã cùng với Nguyễn Đình Nghị và Cả Tam đóng góp lớn cho việc hiện đại hóa chèo đầu thế kỷ 20.
• Hoa Tâm, người xã Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
• Gần đây có các nghệ sỹ : Thanh Trầm, An Chinh, Hoài Thu, Xuân Hinh, Vân Quyền...
Các làng chèo nổi tiếng: Một trong những làn chèo nổi tiếng nhất là làng chèo Thiết Trụ, hay còn gọi là chiếu chèo làng Thiết Trụ, ở xã Bình Minh, tỉnh Hưng Yên. Đội chèo làng Thiết Trụ được thành lập từ những năm 1960. Niềm đam mê chèo của người dân thể hiện trong các câu thơ sau :
Ăn no rồi lại nằm khoèo
Nghe giục trống chèo vỗ bụng đi xem
Chẳng thèm ăn chả ăn nem
Thèm no cơm tẻ, thèm xem hát chèo.
Từ đầu thế kỷ 20, huyện Mỹ Lộc, Nam Định đã có 3 làng chèo khá nổi tiếng: làng Đặng, làng Quang Sán, làng Nhân Nhuế, xã Mỹ Thuận. Trong thơ của Nguyễn Bính có nhắc đến hội chèo làng Đặng Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ Mẹ bảo: "Thôn Đoài hát tối nay Thông tin thêm Nhạc sĩ Quốc Trung đã kết hợp làn điệu chèo với âm nhạc của nhạc cụ hiện đại trong chương trình Đường xa vạn dặm, mang đến cho khán giả một kiểu thưởng thức chèo mới lạ. Chèo cổ Thất Gian hành trình trở về cội nguồn Đối với những người yêu Chèo cổ, đôi khi một tiếng mõ rơi hay một tiếng trống chèo vang lúc đêm khuya cũng đủ làm nao lòng, dội vào tiềm thức của họ nỗi nhớ khôn nguôi về một “thời xa vắng”. Chèo cổ Việt Nam gần như không xuất hiện trong hơn nửa thế kỷ qua, nhưng giữa những sôi động của nhịp sống hiện đại, loại hình nghệ thuật này vẫn như đốm lửa âm ỉ, chỉ cần một ngọn gió cũng đủ thổi bùng niềm đam mê vốn cổ với những khát vọng dân gian tưởng như đã thuộc về dĩ vãng…

IV.Hiện trạng chèo

Ngày nay chèo không còn phổ biến như xưa mà ngày càng mai một dần. Lớp người say chèo, mê chèo không còn nhiều và những người trước đây vẫn điều hành chiếu chèo cũng không còn. Mặt khác,chèo không còn là thể loại nhạc phổ biến , thay vào đó là những loại nhạc đang thịnh hành ngoài thị trường như Pop, Rock, R&B,….mà giới trẻ ưa thích. Tuy nhiên, chèo vẫn phát triển và giữ vị trí quan trọng, một số tỉnh vẫn còn giữ truyền thống hát chèo vào những dịp lễ hội như Hải Dương, Thái Bình, Nam Định…vậy chúng ta phải làm gì để giữ được chèo?

Làm gì để phục dựng chèo?

Chèo là loại hình nghệ thuật dân gian gắn liền với sinh hoạt cộng đồng làng xã. Những đổi thay trong nếp sinh hoạt và guồng quay hối hả của cuộc sống hiện đại làm Chèo bị bỏ quên trong một thời gian dài. Bên cạnh đó, những khó khăn vật chất của cuộc sống đời thường là nguyên nhân làm mất đi niềm đam mê nghệ thuật của chính những người nghệ sỹ. Chèo làng Thất Gian những ngày mới phục hồi tưởng chừng không trụ nổi. Diễn viên ăn cơm nhà, mỗi tuần tập 4 buổi, CLB Chèo cổ Thất Gian đã tồn tại đến ngày hôm nay dù còn rất nhiều khó khăn. Hiện Chèo đang đối mặt với nguy cơ thất truyền do thế hệ nghệ nhân cao tuổi mất đi mà chưa tìm được lớp kế cận, hơn nữa ngôn ngữ trong Chèo có quá nhiều điển tích, điển cố mang đậm tính ước lệ, cách điệu, tượng trưng. Do đó, từ không hiểu chèo đến không yêu chèo là khoảng cách vô cùng ngắn ngủi. Nghệ thuật Chèo từng được rất nhiều nhà chuyên môn giỏi nghiên cứu, tìm hiểu và khai thác. Tuy nhiên, giữ gìn và phát huy chèo không thể dựa vào một cá nhân hay một CLB chèo mà cần phải có sự vào cuộc của các cấp ngành, sự tâm huyết của tập thể nghệ sỹ và tấm lòng những người say mê chèo cổ.

Chèo có những đặc điểm sau:
1/. Chèo thuộc loại sân khấu khuyến giáo đạo đức
2/. Chèo thuộc loại kịch hát dân tộc, một dạng hát - múa - nhạc - kịch mang tính tổng hợp
3/. Chèo thuộc loại kịch hát bi - hài dân tộc
4/. Chèo thuộc loại sân khấu kể chuyện Việt Nam (còn gọi là sân khấu tự sự dân tộc)
5/. Chèo thuộc loại sân khấu ước lệ và cách điệu
6/. Ðặc điểm chuyên dùng và đa dùng nghệ thuật bộc lộ quy luật phát triển của chèo cổ
Sáu đặc điểm trên liên quan mật thiết với nhau, cái nọ bổ xung, hỗ trợ, tác động lại cái kia, cùng đứng chắc trên quan điểm triết mỹ khá rõ. Tất nhiên tùy quan niệm của người vận dụng, có thể đưa sân khấu kể chuyện lên đặc điểm 2, đến kịch hát bi hài, đặc điểm 3, hát - múa - nhạc - kịch cũng gọi là ngôn ngữ nghệ thuật kịch chủng, đặc điểm 4, hoặc đặc điểm hát - múa - nhạc - kịch trên đặc điểm kịch hát bi hài. Nhưng đặc điểm khuyến giáo đạo đức và đặc điểm chuyên dùng đa dạng nghệ thuật thì nhất thiết phải ở vị trí một và sáu, do chúng chi phối quán xuyến cả bên trong lẫn bên ngoài, cả quá khứ, đương đại và tương lai, có tính quyết định bộ mặt và sức sống của kịch chủng. Cũng như đặc điểm ước lệ - cách điệu thuộc phạm trù biểu diễn đặt vào vị trí năm là thoả đáng. Không quên, 6 đặc điểm trên hình thành dần trong điều kiện và hoàn cảnh của một xã hội văn minh lúa nước, diễn biến tự phát, lẻ tẻ, chậm chạp; lại bị một thời gian thử thách với xã hội phong kiến thực dân, nhất là trước tầng lớp thị dân, nên có tình trạng đan xen đến phức tạp, giữa các yếu tố hiện còn khả năng đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người hôm nay, với số yếu tố dẫu một thời được nhiều khách mê say, nhưng giờ đã trở thành rườm rà, dài dòng, nên đòi hỏi một sự nhìn nhận biện chứng bằng những cặp "mắt xanh", mới hy vọng kế thừa học tập thỏa đáng vốn cũ để xây dựng tốt cái mới.
Cần truyền dạy cho lớp trẻ có tâm huyết với chèo. Chỉ cho họ cách hát, diễn, kỹ thuật…hát chèo.
Thường xuyên tổ chức các cuộc thi hát chèo giữa các tỉnh, huyện, xã với nhau để tuyền truyền rộng rãi với mọi người.

Hiện đại hóa chèo bằng cách đưa thêm nhiều yếu tố, lời bài hát phong phú hơn, diễn ở nhiều sân khấu hơn, mở thêm nhiều chiếu chèo.
Chèo là loại hình nghệ thuật đặc biệt vì vậy chúng ta cần phải gìn giữ, bảo tồn, phát huy và làm phong phú thêm loại hình âm nhạc truyền thống này.


tinhngocthi

Tổng số bài gửi : 1
Join date : 22/01/2011

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết